Cương vực tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn Hưng Hóa (tỉnh)

Vài trang sách Đại Việt địa dư toàn biên, Nguyễn Văn Siêu, viết về phủ An Tây tỉnh Hưng Hóa.

Tỉnh Hưng Hóa nhà Nguyễn gồm các châu, huyện: Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Thủy, Mai (châu), Đà Bắc, Phù Yên (Phù Hoa), Mộc (châu), Yên (châu), Mai Sơn, Sơn La, Thuận (châu), Quỳnh Nhai, Luân (châu), Tuần Giáo (Mường Quay), Lai (châu), Ninh Biên (nay là Điện Biên Phủ, huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên), Yên Lập, Văn Chấn, Trấn Yên, Văn Bàn, Chiêu Tấn, Thủy Vĩ.

  • Châu Ninh Biên thuộc phủ Gia Hưng, bắt đầu thuộc lãnh thổ Việt Nam từ năm 1775 thời Lê trung hưng, đến năm Thiệu trị thứ nhất (1841) tách ra thuộc phủ Điện Biên. Ninh Biên tiếp giáp châu Tuần Giáo ở phía Đông, phía Tây giáp nước Nam Chưởng và huyện Trình Cố tỉnh Thanh Hóa thời nhà Nguyễn, phía Bắc giáp châu Lai.[7] Ninh Biên gồm các động (đơn vị cấp làng xã): Mường Thanh, Mường Tôn, Mường Lạo, Mường Tiên, Mường Viên.[8]
  • Châu Lai tức Lai (châu) thuộc phủ An Tây đến năm 1841 tách ra thuộc phủ Điện Biên, (nay là phần đất thuộc huyện Nậm Nhùn tỉnh Lai Châu, thị xã Lai Châu cũ, Mường Chà tỉnh Điện Biên) tiếp giáp châu Quỳnh Nhai và châu Luân ở phía Đông, phía Nam giáp châu Ninh Biên và nước Ai Lao, phía Tây giáp huyện Kiến Thủy phủ Lâm An (臨安府) tỉnh Vân Nam Trung Quốc thời nhà Thanh và sông Cửu Long (theo Hưng Hóa kỷ lược), phía Bắc giáp châu Quảng Lăng của Trung Quốc và sông Kim Tử thuộc châu Chiêu Tấn.[7] (Sông Kim Tử là Kim Thủy Hà (金氺河) nay thuộc Vân Nam Trung Quốc. Sông Cửu Long ở đây có lẽ là sông Nam Ou chi lưu của Mekong ở bắc Lào.) Đầu thế kỷ 19 Châu Lai gồm 2 động Thạch Bi và Hoài Lai.[8]
  • châu Chiêu Tấn thuộc phủ An Tây trong suốt thời nhà Nguyễn (nay là vùng đất các huyện thị Phong Thổ, Tam Đường, Sìn Hồ, Lai Châu tỉnh Lai Châu, huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai). Châu Chiêu Tấn tiếp giáp châu Văn Bàn ở phía Đông, châu Thủy Vĩ ở phía Bắc, phía Tây giáp châu Quảng Lăng nhà Thanh Trung Quốc, phía Nam giáp châu Lai, châu Sơn La.[9] Chiêu Tấn gồm các đơn vị cấp làng xã: Thanh Quý, Minh Lang, Phong Thu (tức thị trấn Phong Thổ nay là thị xã Lai Châu mới), Bình Lư, Ngọ Phúc, Ly Bô, Hồng Lương, Dương Đạt, Than Nguyên.[8] Theo Phạm Thận Duật: châu Chiêu Tấn nguyên gồm 12 động, năm Minh Mạng 19 (1838) đổi động thành xã cụ thể động Hồng Lương thành xã Lương thiện, đặt thêm 2 trại: Lang Nam, Thân Thuộc. Và chia vào 2 tổng: tổng Dương Đạt (gồm: Dương Đạt, Hương Ly, Ngọ Phú, Minh Lương), tổng Phong Thu (gồm: Phong Thu, Thanh Quý, Lương Thiện, Bình Lô, Lang Nam, Thân Thuộc)
  • châu Thủy Vĩ phủ Quy Hóa (nay là đất thuộc thành phố Lào Cai, các huyện thị Bảo Thắng, Cam Đường, Mường Khương, Si Ma Cai tỉnh Lào Cai). Châu Thủy Vĩ tiếp giáp châu Lục Yên (thuộc tỉnh Tuyên Quang thời nhà Nguyễn, nay thuộc các tỉnh Yên Bái, Hà Giang) ở phía Đông, châu Văn Bàn ở phía Nam và Tây, phía Bắc giáp huyện Văn Sơn phủ Khai Hóa Trung Quốc (các cửa khẩu Hà Khẩu, Nam Phố, Xuân Lý).[9] Thủy Vĩ gồm các đơn vị cấp làng xã: Sơn Yên, Hoàng Lạn, Hương Sơn, Cáo Niên, Hoa Quán, Hạo Niên, Gia Phú, Cam Đường, Ngọc Uyển.[10]
  • Luân Châu, đầu thế kỷ 19, thuộc phủ An Tây (năm 1841 đổi thuộc phủ Điện Biên) gồm 3 động (đơn vị làng xã): Đôn Đức, Kim Bảng, Côn Lôn. Theo Phạm Thận Duật: châu Luân, nguyên gọi là châu Loan. Năm 1838 Minh Mạng đổi 3 động (Đôn Đức, Văn Bảng, Côn Lôn) thành xã gộp vào 1 tổng duy nhất là tổng Văn Bản. Luân Châu nay là khoảng địa bàn huyện Tủa Chùa tỉnh Điện Biên.